NẤM LINH CHI
NẤM LINH CHI
Còn gọi là linh chi thảo, nấm trường thọ, nấm lim.
Tên khoa học Ganoderma lucidum (Leyss ex. Fr.)
Thuộc họ Nấm gỗ Ganodermataceae,
Gần đây tại thị trường thuốc y học cổ truyền dân tộc, có thêm một loại thuốc mới là nấm linh chi, nấm trường thọ (Longevity mushroom) dưới nhiều dạng. Toàn tai nấm phơi hay sấy khô, cốm linh chi, dạng đông khô đóng thành nang (linh chi tinh), linh chi từ lâu vẫn thuộc loại thuốc quí hiếm, chỉ có vua chúa, người giàu mới có để sử dụng.
Về thực vật, các nhà nghiên cứu xác định nấm linh chi không phải một loại cỏ, mà là một loại nấm hoa chi trộn nhân sâm, linh chi phấn hoa (bào tử)… với giá rất đắt. Ngay tại Trung Quốc giá linh chi cũng đắt hơn cả nhân sâm. Vậy linh chi là gì? OHAL xin gới thiệu một số nghiên cứu hiện nay về nấm linh chi.
MÔ TẢ NẤM LINH CHI
Trước hết cần biết ngay rằng nấm linh chi không phải là vị thuốc mới phát hiện ít năm gần đây. Mà linh chi là một vị thuốc đã được ghi trong tập sách “Thần nông bản thảo” viết cách đây khoảng 2.000 năm. Lý Thời Trân, tác giả nhiều bộ “Bản thảo cương mục” nổi tiếng thế giới (Lần đầu tiên in năm 1595), cũng đã giới thiệu vị linh chỉ với khoảng 2.000 từ và 6 loại linh chi mang mầu sắc và tên khác nhau: Thanh chi (linh chi mầu xanh), hồng chi (mẫu hồng) còn gọi xích chỉ, đơn chi, hoàng chi (còn gọi là kim chi) mẫu vàng, bạch chi (còn gọi ngọc chi) mầu trắng, hắc chi (còn gọi huyền chi) mẫu đen, tử chi linh chi mầu tím. Tuy có ghi trong các sách cổ nhưng ít người được thấy, được sử dụng, nên gỗ có cuống dài hoặc ngắn, mũ nấm có dạng hình thận, có dạng hình tròn hay hình quạt. Cuống thường cắm không ở giữa mũ nấm mà cắm lệch sang một phía mũ. Hình trụ tròn hay dẹt có thể phân nhánh cuống và cuống có mẫu khác nhau tuỳ theo loài, loài đỏ thay đổi từ nâu đến đỏ vàng, đỏ cam, mặt trên bóng loáng như đánh vécni, trên mặt mũ có những vấn đồng tâm.
Thụ tầng mầu trắng ngà, khi già ngả màu nâu vàng, mang nhiều lỗ nhỏ li ti là các ống thụ tầng mang bào tử. Bào tử loài xích chi hình trứng, được bao bọc bởi 2 lớp màng, màng ngoài nhẵn, không mầu, màng trong mầu gỉ sắt, lỗ nẩy mầm có hình gai nhọn.
Toàn nấm gồm những sợi nấm không màu, trong sáng, đường kính 1-3mm, có phân nhánh.
Tên khoa học được xác định là Ganoderma lucidum (Leyss. ex. Fr.). Nhưng có tác giả lại dành tên này cho linh chi nói chung, còn loại linh chi tím được xác định là Ganoderma japonicum (Fr) Lloyd. Tuy nhiên theo như kinh nghiệm xưa, tất cả các loài linh chi mầu sắc khác nhau đều được sử dụng, nhưng với những tính chất và tác dụng khác nhau. Cho nên đây cũng là một vấn đề chúng ta cần chú ý.
PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN NẤM LINH CHI
Linh chi thường thấy mọc hoang dại ở các vùng núi cao lạnh ở một số tỉnh của Trung Quốc(Tứ xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây…)
Gần đây, trên cơ sở những giống cây hoang dại người ta đã tổ chức trồng theo qui mô công nghiệp để đáp ứng nhu cầu dùng trong nước và xuất khẩu. Ngoài Trung Quốc, Nhật bản, Việt Nam cũng đã tiến hành trồng ở nhiều nơi.
Nấm Linh chi được thu hoạch, phơi sấy khô rồi sử dụng bào chế các dạng cao chiết xuất, bột, nước uống hay dạng khô,…
THÀNH PHẦN HOÁ HỌC NẤM LINH CHI
Mặc dù mới được đưa vào sử dụng rộng rãi vào 20 năm gần đây, nhưng nhiều viện nghiên cứu trong và ngoài nước đã nghiên cứu, đưa ra nhiều kết quả rất đáng quan tâm về thành phần dược tính cũng như hỗ trợ điều trị một số bệnh.
Viện nghiên cứu tỉnh Quảng Đông nghiên cứu thành phần hoá học của nấm linh chi thấy có: Nước 12-13%, lignin 13-14% hợp chất có N 1,6-2,1%, hợp chất phenol 0,08. 0,1%, tro 0,022%, xelluloza 54-56%, chất béo 1,9-2%, chất khử 4-5%, hợp chất steroit 0,14 0,16%. Có tài liệu cho biết trong nấm linh chi có 0,3-0,4 % ergosterol (CHO).
Viện nghiên cứu kháng sinh Tứ Xuyên tìm thấy axit amin, protein, saponin, steroit.
Học viện y học Bắc Kinh phát hiện đường khử và đường kép axit amin, dầu béo.
Theo những công trình nghiên cứu mới nhất của Viện nghiên cứu linh chi của toàn Trung Quốc thì trong hỗn hợp 6 loại linh chi có hàm lượng germanium cao hơn lượng germa- minium có trong nhân sâm từ 5 đến 8 lần. Germa-nium giúp khí huyết lưu thông, các tế bào hấp thu oxy tốt hơn. Lượng polysacarit cao có trong linh chi tăng cường sự miễn dịch của cơ thể, làm mạnh gan, cô lập và diệt các tế bào ung thư Axit ganoderic có tác dụng chống dị ứng và chống viêm.
Trong y học hiện đại, thành phần Ganodermanondiol trong Linh chi ức chế emzym tyrosinase là thành phần tham gia quá trình tăng sinh melanin gây sạm và đen ở tế bào…Adenosine là một sản phẩm của quá trình phân giải năng lượng dự trữ ATP (Adenosine Triphotphat) của cơ thể. Khi cơ thể chúng ta sử dụng năng lượng quá nhìu để làm việc trong một ngày nồng độ Adenosine sẽ tăng cao. Lượng Adenosine này sẽ ức chế thụ thể A1 là cho thụ thể này kém hoạt động hơn cũng như kích hoạt thụ thể A2A làm cho thụ thể này hoạt động mạnh hơn. Điều này sẽ làm chúng ta cảm thấy buồn ngủ và cần nghỉ ngơi. Khi chúng ta ngủ cơ thể sẽ tái tạo Adenosine trở lại thành năng lượng dự trữ ATP cung cấp cho hoạt động của các cơ quan của cơ thể đặc biệt là các hoạt động phục hồi của gan và thận.
CÔNG DỤNG NẤM LINH CHI
Tính chất và tác dụng của nấm linh chi theo Thần nông bản thảo và Bản thảo cương mực
như sau:
Thanh chi tính bình, không độc chủ trị sáng mắt, bổ can khí, an thần, tăng trí nhớ, cường của tim, huyết áp không ổn định, khi thấp khi khí, chữa viêm gan cấp và mãn tính. cao, viêm phế quản, hen, thấp khớp, viêm gan
Hồng chi (xích chi, đơn chi) vị đắng, tính mãn, bệnh phụ nữ vào thời kỳ mãn kinh, bệnh bình, không độc, tăng trí nhớ, chữa các bệnh đường tiêu hoá, giúp thông minh và trí nhớ… thuộc về huyết và thần kinh, tim.
Hoàng chi (kim chi) vị ngọt, tính bình, không độc, làm mạnh hệ thống miễn dịch.
Hắc chi (huyền chi) vị mặn, tính bình, không đốc, chủ trị bí tiểu tiện, sỏi thận, bệnh ở cơ quan
bài tiết.
Bạch chi (ngọc chi) vị cay, tính bình, không độc, chủ trị hen, ích phế khí.
Tử chi (linh chi tím) vị ngọt, tính ôn, không có độc, chủ trị đau nhức khớp xương, gân cốt.
Nói tóm lại dùng 6 loại linh chi lâu ngày sẽ giúp cho nhẹ người, tăng tuổi thọ.
Ứng dụng trên lâm sàng, theo dõi bởi những thầy thuốc YHKH tại một số bệnh.
LIỀU DÙNG
Liều dùng đơn giản nhất là dùng toàn nấm linh chi đã phơi sấy khô, thái mỏng hoặc tán thành bột đun nước sôi kỹ (sôi 15-30 phút) lấy nước uống trong ngày. Liều dùng mỗi ngày 2-5g linh chi khô (hoặc 1-2g cao để uống). Nước sắc nấm linh chi có mùi thơm, vị hơi đắng, có thể thêm mật ong vào cho dễ uống.
Nhiều người còn mua nấm linh chi khô về nấu canh, nấu súp làm món ăn bổ cao cấp, có khi cùng nấu với thịt, một số vị thuốc bổ khác như ngâm rượu.
Có một số loại trà và nhân sâm để phối hợp với linh chi giúp dễ ngủ, tăng cường trí nhớ, viêm phế quản, hen, thấp khớp, vị ngon.
(Trích nguồn: Tổng hợp từ Sách Những Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS.TS Đỗ Tất Lợi).